Tên di sản : Đền Chẹ

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 3974/QĐ-UBND

Giới thiệu

Về quy mô cấu trúc:

Hiện đền thờ tọa lạc trên một khu đất rộng, cao ráo và thoáng mát nhìn về hướng Đông Bắc thuộc trung tâm làng Quang Vinh, có diện tích đất đai là 546,7m2. Phía Đông Bắc giáp đường làng, phía Tây Bắc giáp đường ATK, phía Đông Nam giáp ruộng và phía Tây Nam giáp khu vực dân cư thuộc làng Quang Vinh.

Theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:

Cổng đền: được xây bằng gạch với hai trụ vuông có chiều cao mỗi bên là 1,45m; cạnh vuông bốn mặt là 0,4m, bên ngoài được trát bởi một lớp vôi vữa truyền thống. Cửa vào đền có kích thước rộng 1,8m, dài 6,8m. 

Sân đền thờ: được lát bằng gạch bát vuông màu nâu đỏ với kích thước 30 x 30cm, có chiều dài là 3m, rộng 2,5m.

Đền thờ chính:

Về quy mô cấu trúc: Đền thờ là một ngôi nhà, phía ngoài được cấu trúc theo kiểu “Phương đình”, bên trong gồm có 1 gian hai chái với bốn phía tiền, hậu và tả, hữu đều được tạo thành bốn hiên bởi hệ thống cột xung quanh làm bằng bê tông cốt thép và vôi vữa truyền thống để tạo không gian và thông thoáng cho ngôi nhà. Hệ thống cột hiên này gồm bốn cột phía trước đền là bốn cột tròn, hai cột còn lại được đắp vuông và nằm ở khoảng giữa của hai hiên tả và hiên hữu. Phần nối liên hiên trước và sân đền là bậc tam cấp được xây bằng gạch, trát xi măng và vôi vữa có chiều dài bằng chiều dài của đền là 5,4m. Ngoài ra, trong khuôn viên của đền thờ còn được bố trí ao phía trước đền. Khu vực bên tả đền và phía trước đền, mỗi phía còn có một sân láng xi măng, vôi vữa nên nhìn trên mặt bằng tổng thể di tích, chúng ta thấy được sự thoáng đãng nhưng vẫn tạo nên sự thâm nghiêm, u tịch.

​Đền Chẹ có kích thước chiều rộng là 5,4m, trong đó hiên rộng 2,2m; chiều dài là 6,9m, hiên rộng 1,3m có tổng diện tích là 37,26m2. Kết cấu kiến trúc được làm đơn giản theo kiểu vì kèo suốt biến thể theo kiến trúc gỗ truyền thống gồm một gian, hai chái với hai bộ vì kèo. Các cấu kiện của vì kèo ở đây đều được bào trơn đóng bén, soi gờ chỉ, không có chạm khắc và trang trí hoa văn. Ở phía ngoài của ngôi nhà, phần mái được cấu trúc gồm 2 tầng 8 mái cong theo kiểu chồng diêm, mái lợp ngói mũi hài. Phần ngăn cách giữa tầng mái trên và tầng mái dưới (cổ diêm) được xây bằng gạch trát xi măng. Tám góc mái được trang trí tám đầu đao hình rồng mây cách điệu, bờ nóc và bờ dải được đắp bằng xi măng và vôi vữa theo kiểu soi gờ chỉ. Hai đầu của bờ nóc được đắp đấu trụ vuông, phía trên gắn một hình búp sen bằng sứ. Phía trên của mái diêm (đốc), phía bắc (mặt trước của đền) còn đắp nổi hai chữ Hán có nội dung “Tâm thành” tức thành tâm.

Nhìn từ trên đỉnh xuống ta thấy, phía trên cùng là thượng lương được đỡ bởi hai cặp kèo suốt đan chéo nhau, lần lượt ăn mộng vào trụ đứng, xà lòng rồi chạy thẳng xuống bờ mái phía ngoài hiên. Điểm mút cuối cùng của các kèo suốt này gác lên đầu cột hiên và có chức năng thay thế cho kẻ hiên. Hệ thống xà ở đây cũng ăn mộng vào trụ đứng, bên dưới là câu đầu cũng được ăn mộng vào đầu trụ đứng, dưới cùng là các quá giang có nhiệm vụ đỡ các trụ đứng, toàn bộ hệ thống khung gỗ và hệ mái của ngôi nhà.

Đặc biệt, để đỡ phần mái của hiên trước, các nghệ nhân đã thiết kế thêm hai bẩy ở hai góc mái. Phần ngoài của các bẩy hiên này gác lên đầu cột hiên, bên trong ăn vào thân tường bao tạo nên một bố cục liên kết chặt chẽ và chắc chắn cho ngôi nhà.

Tất cả các bộ vì kèo khung gỗ của ngôi nhà được tạo bởi một bố cục liên kết chặt chẽ, chắc chắn và có tính chất đăng đối giữa các bộ vì kèo với nhau.

Bài trí đồ thờ:

Tiền đường: Ngay chính giữa Tiền đường được đặt một bệ thờ, phía trên đặt một bát hương, đây là nơi thờ thần Thổ địa. Bên hữu còn có một ban thờ gỗ nhỏ là nơi thờ người hầu cận của Thần gồm có một bát hương sứ, một bình đựng rượu và ba chén sứ. Phía ngoài, trên cùng của ban thờ còn treo một bức Đại tự, hai bên là hai câu đối như sau:

Đại tự ghi:

                                               “Hợp hoằng quang đại”.

Nghĩa là:

                                                  Rộng lớn sáng láng

Câu đối:

Phiên âm:

“Trừ tai hãn hoạn thần công đại,

Củng bắc triều Nam địa mạnh tường”.

Thành Thái bát niên mạnh xuân nhật.

Dịch nghĩa:

Trừ tai dẹp hoạn thần công lớn,

Hướng bắc châu Nam mạnh đất dài.

Đầu xuân niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1896).

Hậu cung: nằm ngay phía trong Tiền đường và được ngăn cách với Tiền đường bởi một bức tường xây hai bên, ở giữa là lối đi vào hậu cung làm theo kiểu cuốn vòm. Chính giữa lối đi vào. Hậu cung, phía trước được ngăn cách bởi ban thờ Thổ địa. Hai bên ban thờ này có hai lối đi nhỏ để vào Hậu cung. Đây là nơi thờ Hắc Y tôn thần, ban thờ gồm có: một hương án gỗ, một ngai thờ, một hòm đựng sắc, ba đài nước, hai ống hương, hai chân nến, một lọ cắm hoa, hai mâm bồng, một đôi hạc gỗ. Chính giữa ban thờ đặt một bát hương sứ, bên hữu cũng đặt một bát hương sứ thờ Hội đồng.

Tóm lại: Đền Chẹ trải qua thời gian và nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử nên đã bị huỷ hoại nhiều nhưng đã được chính quyền và nhân dân tu bổ, tôn tạo lại theo kiểu kiến trúc truyền thống. Mặc dù được xây dựng đơn giản nhưng ngôi đền lại có kiểu thức kiến trúc khá đặc biệt, bởi nhìn toàn cảnh từ bên ngoài ta thấy ngôi đền giống như một tòa phương đình với 2 tầng, 8 mái. Tuy nhiên, kết cấu bộ khung gỗ bên trong ngôi nhà lại không thể hiện cho chúng ta thấy ngôi nhà gồm có 2 tầng, 8 mái.

Hình ảnh Đền Chẹ

Đền Chẹ

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật